Thứ Bảy, 24 tháng 9, 2011

MẬT TÔNG CỬU TỰ THỦ ẤN TU LUYỆN


Bộ Thủ Ấn này chủ yếu do hệ phái Đông Mật sử dụng. Đại pháp tu trì này dùng 9 bộ cách tu trì để khai mở lực tiềm năng tập trung trong 9 nơi bí mật ẩn trong thân người. 9 bộ vị tiềm năng này gồm 7 luân xa và các ngón của 2 tay là 9. Pháp tu luyện Cửu Tự Thủ Ấn, nên lựa chỗ trống vắng. 

Photobucket
Không quá tối quá sáng, không quá chật, quá rộng, trần nhà không quá cao quá thấp. Thời gian tu tập bất luận ngày đêm, nhưng vào sáng sớm thì không khí trong lành hơn. Trước khi tập cần phải rửa tay súc miệng sạch sẽ, sửa sang quần áo, dung nghi. Người mới tập không được tập quá 30 phút. Cách thực hiện thủ ấn đã có ở phần bài viết của huynh TheAnh, ở đây chỉ bổ sung ấn và chú. 
1/Thủ ấn của LÂM: 
Photobucket
Quán niệm sinh mệnh lớn rót đầy trong vũ trụ đang rót đầy tòan thân ta và ta đang tiếp dòng sinh mệnh lực này, ta hiện đang biến thành BẤT ĐỘNG BỒ TÁT. Chú: NAMAH SAMANTA VAJRANAM (3L) - OM VAJRA SATVA AH (108L) - OM VAJRA SATVA AH. NAMAH SAMANTA VAJRANAM HAM (108L) 
2/Thủ ấn của BINH:

Photobucket
Thủ ấn này biểu thị cho người bệnh nặng sắp chết tung giường trổi dậy, khôi phục lại sinh mệnh. Quán niệm ta là HÀNG TAM THẾ MINH VƯƠNG biểu lộ sự nổi giận, hàng phục tất cả kẻ địch xung quanh. Chú: NAMA STRIYA DVIKANAM SARVA TATHAGATANAM AM VIRAJA VIRAJI MAHACAKRA VAJRI SATA SATA SARATE SARATE TRAYE TRAYE VIDHAMANI SAMBHAMJANI TRAMATI SIDAGRI YATTRAM SVAHA (108L) - OM SUSHINI SUSA VAJRA HUM PHAT (108) 
3/Thủ ấn của ĐẤU:

Photobucket
Đấu là Dũng cảm quả đóan, càng gặp chướng ngại càng bộc lộ quyết tâm cao. Quán niệm ta như Kim Cang Mạn Bồ Tát tòan thân màu trắng (bạch nhục) đoan trang đang phóng hào quang chói lọi Chú: OM SAMAYASATVAM OM VAJRA MALE THATA (108) - OM SAMAYA SATA OM VAJRA MALE TRAYA (108L) 4/Thủ ấn của GIẢ:

Photobucket
Biểu thị có thể tự do tự tại thao túng khống chế nhục thể của mình hoặc người khác. Quán niệm: Ta cùng Kim Cang Đại Nhật đồng làm 1 thể. Tâm của Đại Nhật Như Lai như sư tử vương, nuốt chửng hết bốn loại độc trong tâm ta như Tham Sân Si... Chú ( Niệm ra tiếng): OM VAJRA DATU VAM (108L) Tưởng tượng ánh hào quang từ câu chú biến chiếu khắp hư không. 5/Thủ ấn của GIAI:

Photobucket
Biểu thị cho sự thay đổi của tâm người cho đến Tha tâm thông, có thể tùy tâm muốn thao túng kẻ khác. Không quan niệm quán tưởng, tập trung vào thủ ấn, không có chút tạp niệm trong đầu. Chú: OM SARVA TATHAGATA MUSTI VAM OM VAJRASATVA MUSTI A OM VAJRA RATNA MUSTI TRAM OM VAJRA DHARMA MUSTI KHAM OM VAJRA KARMA MUSTI HAM (108l)
 6/Thủ ấn của TRẦN:

Photobucket
Là tiếng của Linh giới, tập trung vào sự Kính ái và giàu có. Quán niệm tự thân biến thành Kim Cang Tát Đỏa. Tiếp theo phải quán Kim Cang Câu Bồ Tát, Kim Cang Sách Bồ Tát, Kim Cang Tỏa Bồ Tát, Kim Cang Linh Bồ Tát. Sau đó xướng chơn ngôn, kết thủ ấn. Chú: OM VAJRA SATSA AH JAH HUM VAM HOH(108l) 
7/Thủ ấn của LIỆT:

Photobucket
Là bởi ta hòan thành đến mức cứu tế cho người khác, biểu thị Tâm của bậc Thánh. Tâm vô tưởng vô niệm mà tiến hành.
8/Thủ ấn của TẠI:

Photobucket
Là lăng không, ngự không một cách tự do tư tại, bay lượn trong không trung. Biểu thị sức mạnh có thể khống chế tự nhiên. Cần tưởng nguyệt luân tròn đầy. Nguyệt luân dần dần biến to ra đến lúc chiếm nửa hư không. Ngay khi đó, thân ta và thân Đại Nhật cũng dần biến to, đối nhau, dần dần tiến gần nhau cho đến khi nhập lại làm một. Ta cũng là Đại Nhật, trụ vào trong nguyệt luân tròn. 
9/Thủ ấn của TIỀN:

Photobucket
Là Phật, cũng là cảnh giới của bậc siêu nhân. CĂN BẢN THÀNH THÂN HỘI Suất lãnh Tứ Phật biểu thị đức Đại Nhật Như Lai đang nhập Niết Bàn Không có quán tưởng, quán niệm chơn ngôn. 
TRAO ĐỔI:
Bạn Raybin65 mến. 
Thanh xin được nói thêm một chút theo hiểu biết và sưu tập riêng của mình. Tu trì Đại pháp Thủ Ấn này là thông qua 9 bộ cách tu trì để khai mở Lực tiềm năng tập trung trong 9 nơi bí mật ẩn nơi thân người. Môn Cổ Đại Du Già đã phát hiện ra 7 nguồn suối phát xuất năng lượng trong cơ thể (7 luân xa hay còn gọi là Cakra). 
Các vị Du Già Đại sư đã tìm ra những biện pháp kiểm soát và khai mở các nguồn suối năng lượng này. Thông qua sự tu tập các phương pháp, rèn luyện về sự khai mở 7 luân xa trong thân làm cho con người khai quật các tiềm năng của tự thân mình, thực hiện được các kì tích phi thường mà Đạo gia, Phật gia thường gọi là thần thông. Thật ra, việc thực hiện các phép DuGià (Yoga) của Ấn Độ là một trong những phương tiện khai mở luân xa để đạt đến thần thông. 
Cửu Tự Thủ Ấn cũng vậy, các vị Tổ Mật Tông Tây Tạng đã biết vận dụng công năng của các bộ ấn khế kết hợp với thần chú và các thế tập, quán tưởng , quán niệm để sáng tạo ra Cửu Tự Thủ Ấn Đại pháp. Mục đích cuối cùng của pháp môn này cũng là con đường giải thoát mà thôi, chỉ có khác chăng là phương tiện thực hiện có một số chi tiết hơi giống với phép tu luyện của Đạo Gia bên Trung Quốc ( bởi vì các vị Tổ Mật Tông Nhật Bản đã tham cứu cách tu tập từ những pháp môn của Trung Quốc mà). Chính vì những thành tựu thần thông đạt được trong quá trình tu luyện đã làm cho một số vị đời sau rẽ sang lối khác, luyện theo Thần đạo, chia năm xẻ bảy,xây dựng thành nhiều tông nhiều phái. Nếu những ai có nghiên cứu về thuật Ẩn Giả ( Ninja) sẽ thấy những người tu tập cao đều có luyện qua ấn chú... 
Tóm lại, tu hành theo Mật tông dễ sở đắc thần thông, đồng thời cũng dễ chệch hướng nếu không có thầy lành, bạn tốt. Mật tông Nhật Bản ít phổ biến như Mật tông Trung Quốc cho nên nhiều huynh đệ không biết lắm. Xin được trình bày thêm để chư huynh đệ cùng tham khảo, tìm hiểu.

Thứ Năm, 22 tháng 9, 2011

THIÊN LINH CÁI

Trưa hè giữa tháng 8, trở lại vùng đất Đồng Tháp Mười, người dân nơi đây vẫn chưa nguôi ngoai vụ án mạng đau lòng mà kẻ giết người gây ra chỉ cho rằng có thể luyện được thuật tà “Thiên Linh cái”. Một gã đàn ông xuất hiện trên chiếc ghe rồi gieo rắc những cái chết kinh hoàng trên cù lao 3 xã Tân Bình, Tân Quới và Tân Huề. Ông ta đã phải đền mạng trước hàng ngàn cặp mắt của người dân như chính tội ác ghê tởm của một tên sát nhân ghê tởm.

Người đàn ông bí ẩn phiêu bạt trên chiếc ghe

Thoạt đầu, nói đến thuật tà “Thiên Linh cái” nghe có vẻ rùng rợn. Chẳng biết ở xứ ta có mấy ai luyện được thành công, nhưng những kẻ gieo rắc những cái chết chóc để luyện thuật tà và gây ra tội ác đều bị pháp luật trừng trị. Nghe kể lại, hơn 15 năm trước đây, ở cù lao xã Tân Bình (huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp), xuất hiện một người đàn ông tên Phạm Văn Tân (54 tuổi) tự xưng hành nghề thầy thuốc. Ông ta sống phiêu bạt trên một chiếc ghe và lênh đênh trên con rạch Mã Trường thuộc ấp Hạ (xã Tân Bình). Từ hồi ghe của ông cập bến, thi thoảng chỉ có vài người đến chạy chữa thuốc thang của ông. Bốc thuốc được thời gian, người dân biết đến ông ta với một danh xưng là thầy Hai Tưng. Ông nhanh chóng chiếm được tình cảm của bà con bởi thường xuyên chữa bệnh nhưng chẳng lấy tiền. Ở vùng quê nghèo, có được những thang thuốc quý mà không mất một xu khiến tiếng tăm của thầy Hai Tưng càng nhanh chóng đồn xa.

Nhiều người nhìn nhận trông thầy Hai Tưng có tượng mạo hiền từ. Cách ông nói chuyện nhẹ nhàng, khéo léo, có tích, có tuồng nên càng khiến mọi người bị cuốn hút. Đa phần, đàn bà phụ nữ và những cô gái trẻ tuổi thường hay lui tới chiếc ghe của ông để bốc thuốc. Mà ở xứ miệt vườn, chỉ cần chiếm lấy tình cảm của một người, tiếng lành mau chóng đồn xa. Một đồn thổi 10 người, 10 người cho 100 người biết. Chẳng mấy chốc danh tiếng của thầy Hai Tưng phủ lấy cả cù lao 3 xã. Ông ta nhanh chóng thoát khỏi cuộc sống lênh đênh nhờ bà con thương tình cho mượn tạm mảnh đất nhỏ để cất căn chòi mé kênh. Từ khi hòa nhập với cuộc sống mới, thầy Hai Tưng vẫn ngày đêm bốc thuốc chữa chạy cho mọi người. Ông sống khá lập dị. Suốt ngày căn nhà của thầy Hai Tưng cứ đóng im ỉm, chỉ có người vợ Trần Thị Thể (42 tuổi) thỉnh thoảng ra vào tiếp tế thức ăn cho ông. Thấy lạ, nhiều người dân thắc mắc, bà vợ này cho biết, thầy Hai đang Luyện thuật tà… “Thiên Linh cái””.

Những câu chuyện dẫn dụ về “Thiên Linh cái” nghe có vẻ huyền bí. Họ giết người lấy đầu để điều khiển âm binh thiên tướng và sai khiến người khác. Hay cũng có những chuyện làm hoang đường làm rung động người nghe. Đại loại khi nhắc đến thuật tà, người nghe càng bị mụ mị vào những mê hồn của sự hư thực. Ông Bảy Ruốc chẳng thể nào quên được những truyền thuyết về thầy Hai Tưng từng kể. Luyện “Thiên Linh cái” được phân thành nhiều trường phái. Có trường phái được luyện theo nhau thai em bé khi còn trong bụng mẹ. Hồi đó, thầy Hai Tưng bảo rằng, “Thiên” được cắt nghĩa từ sự “thiên biến vạn hóa”. Chữ “Linh” được hiểu theo sự “linh ứng” trong những thuật tà. Ở bất kỳ một pháp thuật nào, đều phải có một kết quả ứng nghiệm khi tu luyện. Còn riêng chữ “cái”, nó có nhiều nghĩa để phân loại thành nhiều trường phái chính đạo hay tà đạo. Nếu nói về thuật luyện công của thầy Hai, ông ta mụ mị người dân bằng cách hành nghề bốc thuốc cứu chữa giúp người đời để cho giấu tội ác kinh tởm. Thầy Hai Tưng tự nhận, ông ấy luyện “Thiên Linh cái” theo phương pháp lấy nhau thai của bé gái để sai khiến âm binh. Những người ác độc hơn sẽ luyện bằng thi thể của những bé gái nhỏ còn trinh. Tất cả đều là chuyện siêu hình, siêu nhiên trong bao la của vũ trụ thiên biến vạn hóa. Thầy Hai Tưng từng thề thốt với mọi người rằng, ông chuyên ăn chay trường, không làm chuyện thất đức để tu thân và giúp người đời. Nhưng vụ việc giết người hàng loạt của kẻ tàn độc đến hồi bị lột trần. Người dân cảm thấy kinh tởm sau những hành động giết người vô nhân tính của người đàn ông khả kính đạo mạo ấy. Những việc thiện của thầy Hai Tưng và những lời nói dường như có “cánh” không che lấp được tội ác kinh hoàng được phơi bày.

Thầy Tưng hay tư hào khoe với bà con có thể giúp chị em “dụ” được đức lang quân về sau những ngày bị ruồng bỏ chán chê. Những cô bác nào chồng có biểu hiện “ăn phở” thì đến thầy bốc thuốc tuyệt đối sẽ thấy sự linh nghiệm tức thời. Sau khi dùng phải bùa của thầy Hai, lập tức những ông chồng ngoan ngoãn về nhà và như có cảm giác mê các bà vợ già ở nhà? Cũng có nhiều trường hợp, nếu quý cô muốn chồng chê và xa lánh, thầy sẽ cho bùa về “yểm” để bỗng dưng ông chồng xa lánh, chán nản và tự bỏ các cô? Cách nói chuyện hấp dẫn về những bài thuốc, những tấm bùa như rót mật vào tai bà con miệt vườn. Cái tính cả tin, thật thà của người dân Nam bộ như bị cuốn hút vào một thế giới siêu nhiên huyền bí. Nhiều phụ nữ thường xuyên lui tới để tìm đến thầy Tưng xin bùa và bốc thuốc thật.

Hình ảnh thật về việc luyện Thiên Linh Cái Thiên linh này 1 xác 2 thân oai lực kinh người.

Thầy Hai Tưng chỉ có yêu cầu nhỏ nhoi, muốn đến nhà thầy bốc thuốc thì phải đi một mình và đến gõ cửa nhà thầy vào giờ “âm”. Do “Thiên Linh cái” chỉ hiệu nghiệm vào ban đêm, những âm binh thiên tướng mới nghe lời thầy sai khiến và linh ứng với lá bùa thầy ban. Thế là từ đó, đêm đến, nhà thầy Hai Tưng xuất hiện những vị khách là những quý bà, quý cô đang khao khát giữ chồng hay muốn chồng ruồng bỏ ghé qua. Kể cũng lạ, ai muốn vào nhà thầy xin bùa phải bò mọp dưới đất để chui qua tường rào. Xung quanh căn nhà thầy xin bùa. Xung quanh căn nhà thầy Tưng không lớn lắm, chỉ độ khoảng 10 mét vuông được rào chắn phía bên dưới cẩn thận. Sau khi chui qua rào, người khách sẽ lần mò và “độn thổ” lên phía trên sàn nhà. Đêm đến, trên cù lao 3 xã thời điểm đó, chưa một nhà nào có được ánh đèn điện. Căn nhà thầy Hai Tưng biệt lập giữa khu đồng không mông quạnh và chỉ lòe loẹt ánh đèn dầu lúc tỏ lúc mờ như tăng thêm vẻ huyền bí. Ông Tư ở gần nhà thầy Hai kể lại, nhiều lúc đi đắp bờ bao ruộng quá khuya, đánh xuồng theo con rạch chạy dọc gần mé nhà thầy Tưng bỗng nhiên ông có cảm giác sởn da gà. Vậy mà nhiều bà hay các cô thập thò trước nhà thầy Hai Tưng mà thấy đáng nể. Không ít bà qua xin bùa thầy Tưng đều khen ngợi ông thầy có “phép thuật” tà rất hay. Họ không ngớt lời ca thán thầy Tưng mặc dù có nhiều người chưa từng đến đó để xin bùa mà chỉ nghe nói lại.

Sự mất tích đột ngột của những cô gái

Trở lại vùng đất thầy Hai Tưng từng sinh sống, khung cảnh ghê rợn dần hiện lên trong những lời kể của người dân. Họ như muốn tố cáo tội ác của ông thầy pháp từng khuấy đảo vùng quê nghèo yên bình. Cảnh cũ vẫn còn hiển hiện trong tâm thức của bà con. Anh Sang, hành nghề xe ôm ở cù lao gần 20 năm chở chúng tôi trên chiếc Wave cũ rích, vừa đi anh vừa hướng dẫn tận tình những nơi thầy bùa từng sinh sống như tố cáo tội ác của gã. Dòng kênh Mã Trường hiền hòa cặp theo mé lộ dần hiện ra. Trước đây, Thầy Tưng từng xuôi ngược để sinh sống trên dòng kênh này. Con kênh cứ chạy uốn lượn cặp theo mé lộ với những mảng lục bình trôi lững lờ. Chiếc xe gắn máy nhiều lúc cứ nhảy chồm lên phía trước và cuốn theo những lời kể kinh dị của anh Sang. Bỗng chốc, chiếc xe thắng vội và dừng lại trước một cánh đồng trồng kín mít toàn ngô. Nhẩm đếm theo cây cột điện, anh Sang chỉ vào đám ngô sát mé lộ và khẳng định, vị trí trước đây thầy Hai Tưng được người dân cho mượn đất để dựng chòi, thoát khỏi kiếp lênh đênh trên chiếc xuồng ghe máy. Từ hồi vụ việc của ông thầy chuyên bốc thuốc “khuyến mãi” người dân bị bại lộ, mọi người căm phẫn, đến dỡ nhà và đốt sạch tất cả. Bà con cho rằng, căn nhà là cái tiền đồ cho thầy Hai gây tội ác thì cũng phải được phá bỏ để như hất đổ và loại bỏ gã thầy thuốc mất nhân tính đi vậy.

Ông thầy Hai sống che đậy hành tung rất khéo. Những lần đi đám trong vùng, ông thầy cứ khoát trên người chiếc áo bà ba trắng, râu tóc dài và ngồi vào bàn góp vui cùng gia chủ. Bà con trân trọng thầy lắm, tham dự đám tiệc nào thầy Tưng cũng được ngồi ở những mâm cao cỗ đầy. Thịt thà, rượu chè bày ra ê hề trên bàn nhưng tuyệt đối, thầy Hai chỉ xin ít cơm trắng với chén nước tương chung vui với bà con. Lý giải sự kỳ quặc cho bản thân, thầy Hai Tưng thường hay cười xòa rồi lẩm bẩm trong miệng: “Kiếp tu luyện của thầy chỉ quen với những vị chay trường và chuyên làm việc tích đức”?

Những dịp cúng tế, thầy Hai thường chạy sang nhà người dân gần đó để bắt vài con gà, con vịt. Tiện thể thầy không quên mượn cái nồi thật to về để hầm. Chẳng ai mảy may nghi ngờ hành tung của ông. Thậm chí người dân còn tin thầy Tưng thường cúng cho vong hồn âm binh thiên tướng như ông ấy nói. Đôi ba lần, thầy có mượn cái nồi không rất to, thầy chỉ cho biết mang về để hầm… đầu heo. Những vật cúng tế thầy Hai cho bà con hết. Tự dưng, mọi người không dám đụng đũa đến những thứ lễ vật thầy mang biếu. Chẳng biết vì sao, nhưng người ta có cảm giác mùi tanh tưởi bốc lên đến lợm giọng. Để rồi sau khi sự việc được phát hiện về hành tung giết người tàn độc của ông Tưng, người dân mới ngơ ra một điều, những lầm cho mượn nồi hầm đồ cúng chỉ là cái cớ. Ông thầy bất nhân lấy nồi để nấu đầu nạn nhân rục chín và thu sọ rồi luyện “Thiên Linh cái”.

Đêm cuối tháng 5-2000, một cô gái trẻ đến nhà thầy Hai Tưng để xin bùa trị ông chồng. Nguyên cớ xuất phát từ việc cô đi làm ăn xa nhà, người chồng hay gọi điện thoại bắt cô gái phải về vì cứ nhớ nhung hoài. Ở Sài Gòn nhiều năm, cô gái có nước da rám phèn bỗng chốc trở nên trắng trẻo, hồng hào. Những lần về thăm nhà, cô mang về tiền bạc rủng rỉnh trong túi càng làm cho người chồng trở nên sinh lòng ghen tuông. Nhưng với cô ta, người chồng như quấy rầy và cảm thấy khó chịu. Vậy là, cô gái ấy nhất định tìm cách cho người chồng quên hẳn mình đi để yên thân làm ăn xa quê. Một lần về nhà, tình cờ nghe mọi người đồn đại về ông thầy Hai Tưng, dù chưa biết hay dở thế nào, cô đánh liều đến nhà thầy Tưng để xin bùa.

Cô gái ấy có tên Trần Thị Phương, thời điểm đó cô chỉ mới 25 tuổi. Phương sinh ra ở xã Tân Huề, nhà giáp ranh của xã thầy Hai Tưng trú ngụ và cùng chung trên cù lao. Hoàn cảnh quá khó khăn, lấy chồng được vài năm, cô đến TP. HCM để tìm việc làm và gửi tiền về quê phụ giúp gia đình. Nghe lời nhiều người mách bảo, đợi đến khi bóng đêm phủ xuống vùng Đồng Tháp Mười tối như mực, Phương chèo ghe tìm nhà thầy Hai Tưng. Trước khi đến nhà thầy Tưng xin bùa, cô chỉ kịp vội nói úp mở với gia đình vài câu rồi đi. Từ đó, Phương mất tăm và mãi mãi không trở về. Đã gần 2 tháng, gia đình thấy cô gái đi quá lâu nhưng chẳng có tin tức và mọi người đổ xô chia làm nhiều hướng để đi tìm.

Được người dân dẫn dắt đến nhà ông thầy Hai Tưng, bà con phát hoảng khi thấy phía sau nhà, mé bờ kinh Cả Gừa (ấp Hạ, xã Tân Bình) có một đám đất nhú lên bốc mùi hôi thối. Khu đất trên chỉ cách nhà thầy Tưng khoảng chừng 500 mét. Sinh nghi, người dân tổ chức đào bới thì phát hiện một thi thể mất đầu nhú lên. Mọi người kinh hãi và trính báo sự việc lên công an địa phương. Lâu nay vùng đất cù lao 3 xã nổi tiếng thanh bình, nay bỗng dưng sự việc xảy ra làm chấn động vùng quê yên tĩnh. Mọi hoài nghi đều được đổ dồn lên hành tung bí ẩn của ông thầy bùa Hai Tưng.

Ngay trong chiều cùng ngày, lực lượng trinh sát bủa vây và ém quân trước nhà thầy bùa Tưng. Cơ quan chức năng yêu cầu kiểm tra hành chính ngôi nhà đóng cửa một cách đầy bí ẩn quanh năm suốt tháng. Cánh cửa mở toang, công an địa phương phát hiện 3 cái sọ người đặt trên bàn thờ. Cạnh đó, một hũ keo chứa những chùm lông đen ngòm được đậy kỹ. Ông thầy Hai Tưng lúc này mặt tái mét, miệng lắp bắp trước những câu hỏi của cơ quan chức năng. Tiến sâu vào trong căn nhà, Công an huyện Thanh Bình thu hồi được nhiều dao lam và dao Thái Lan còn vương lại vết máu. Một số chứng minh thư, nhiều vật dụng, dây chuyền, đồng hồ đeo tay, vòng mã não của các nạn nhân cũng được tìm thấy. Nhìn những kỷ vật của chị Phương, gia đình nạn nhân vật vã, òa khóc, họ gần như tin rằng đứa con gái của họ đã bị thầy Tưng sát hại. Nhận định các nạn nhân của thầy Hai Tưng ngoài chị Phương còn có một số người khác, Công an huyện Thanh Bình tổ chức công tác truy xét và tìm kiếm những thi thể còn lại.

Khai thác nhanh đối tượng, thầy Tưng chỉ xuống phía dưới sàn nhà và thú nhận bên dưới còn 2 thi thể bị vùi lấp. Con nước ngày đầu tháng 7 âm lịch dâng cao, vượt quá hàng rào quanh nhà thầy Tưng. Ngay trong đêm, người dân địa phương nỗ lực hỗ trợ cơ quan chức nào đào đất lấp bờ bao vây lấy căn nhà. Chỉ cách khu vực nhà thầy Hai khoảng gần 1 cây số, người dân hiếu kỳ ở các vùng lân cận hay tin đổ xô về xem rất đông. Cơ quan chức năng phải chỉ huy lực lượng chốt chặn ở các ngả để phong tỏa hiện trường phục vụ công tác điều tra. Người dân địa phương được huy động mang máy bơm rút cạn nước bên trong và tiến hành đào ở vị trí thầy bùa chỉ. Chỉ vài nhát xẻng, lần lượt hai thi thể của những nạn nhân còn lại được tìm thấy. Tất cả nạn nhân của ông thầy quái đản ra tay sát hại là nữ giới. Đau lòng hơn, không một thi thể nào còn nguyên vẹn và đều bị mất đầu. Tên Nguyễn Văn Tân (tức thầy Hai Tưng) được dẫn giải về Trụ sở Công an huyện ngay trong đêm để lấy lời khai. Hắn kịp lấy lại vẻ mặt bình thản và chẳng chút sợ sệt khi bị dẫn giải đi.

Tội ác kinh hoàng của gã thầy bùa…tà dâm

Hành tung của thầy Tưng được làm rõ. Ban đêm, mỗi khi nạn nhân của thầy Hai Tưng đến chữa bệnh, ông ta cắt cớ bắt phải chui qua hàng rào để dơ đồ và sau đó hắn ta có cơ hội để giở trò đê tiện. Nạn nhân Phương tìm thầy Tưng phải cố bò qua dãy hàng rào trong một đêm tối trời, hắn liền bảo cô gái cởi áo dơ đang mặc trên người và thay áo thun đỏ sạch để được thầy làm…phép. Vừa cởi áo trên người, thầy bùa nổi máu dê và nhào tới từ phía sau. Hắn ta hiện nguyên hình là một gã đàn ông đồi bại. Bịt miệng nạn nhân, thầy Hai Tưng lấy tay bóp cổ nạn nhân đến chết. Trở về lấy dao lam, hắn ta cạo sạch lông ở vùng kín của cô gái bỏ vào hũ keo…để dành. Các bà các cô đến xin bùa về để trị chồng cũng thường bị hắn tỉa sạch…Hắn lấy nhúm lông bỏ vào hũ keo như làm trò tiêu khiển của bùa pháp bệnh hoạn. Ông ta quan niệm, gom càng nhiều “của quý” từ nữ giới sẽ giúp hắn ta mau chóng luyện thành công “Thiên Linh cái”. Rồi sau đó, gã thầy bùa đê hèn thực hiện hành vi cưỡng hiếp thi thể nạn nhân. Mọi việc xong xuôi, hắn ta mang xác nạn nhân ra sau vườn và đào hố chôn nhằm che giấu tội ác. Có được đầu của nạn nhân, thầy Hai Tưng chạy sang nhà hàng xóm mượn cái nồi thật to để mang hầm. 3 thi thể không đầu được tìm thấy ứng với 3 sọ trong nhà cũng chính của các nạn nhân. Sau này mọi chuyện vỡ lở, các đấng ông chồng trong xóm không ngớt ghen tuông các bà vợ từng đi chữa bệnh thầy Hai. Một số gia đình tan cửa nát nhà. Một số chị em còn lại giải thích, đi khám phụ khoa ở bệnh viện huyện, bác sĩ bảo phải cạo như vậy.

Trong quá trình bị cơ quan chức năng tạm giam điều tra, thầy Hai Tưng vẫn tin hắn đã luyện được thuật tà… “Thiên Linh cái”. Sau nhiều lần xét xử, thầy Hai bị tuyên án tử hình. Ngày thi hành án, y bắn tin ra ngoài sẽ dùng phép độn thổ trước mặt bà con để chứng minh được phép thuật kỳ diệu của “Thiên Linh cái”. Trước hôm mang gã thầy bùa ác nhân thi hành án, người dân các tỉnh vùng ven kéo về xã Tân Quới rất đông. Chỉ độ chập choạng chiều, một số người dân hiếu kỳ mang theo lều chõng cắm trại ngay tại đình Tân Quới để xí chỗ. Từ nửa đêm, hàng ngàn người chen chân đứng vây kín sân đình. Người ta tò mò muốn tận mục sở thị thầy Hai Tưng dùng phép thuật biến trước mặt bà con.

Trời dần rạng sáng, ước tính hàng ngàn người dân đã vay kín pháp trường. Mặt trời lên cao, thầy Hai Tưng được dẫn giải ra đình Tân Quới. Mọi cặp mắt đều đổ dồn về thầy bùa kỳ bí. Vụ án sát hại người dã man của y gây chấn động cả một vùng miền Tây sông nước. Gã thầy bùa đã làm người dân kinh tởm bởi hành động giết người vô nhân tính và mong mỏi được pháp luật trừng trị thích đáng. Rồi thời khắc ấy cũng đã đến. Thầy Hai Tưng bị xử tử và người dân thực sự được chứng kiến ông ta đền mạng cho hành động reo rắc tội ác kinh hoàng. Quả thực, thuật tà “Thiên Linh cái” chỉ có trong tưởng tượng của ông thầy bệnh hoạn. Thầy Tưng chẳng thể độn thổ như những gì ông ta ảo tưởng. Hơn 10 năm sau, vùng đất cù lao xưa kia đã đổi thay từng ngày. Trình độ dân trí ba con dần nâng lên cao. Người ta chẳng còn tin đến một thứ thuật tà hay bùa phép. Tội ác của thầy Hai Tưng chỉ con là một ký ức buồn lùi dần vào quá khứ.

(Theo Pháp Luật & Cuộc Sống)

Thứ Ba, 6 tháng 9, 2011

TU PHẬT TẠI GIA



Tu có nghĩa là sửa. Tu rất khó, khó nhất là tu tại gia, cho nên có câu: Thứ nhất tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa. Ở chùa có nhiều thiện duyên nên tương đối dễ tu. ở chợ lại khó tu hơn một chút vì phải giữ lòng ngay thẳng, không gian manh lường cân tráo đấu; ở nhà lại khó hơn nữa vì bạn ác rủ rê làm ta dễ bị sa đọa.


Quy y Tam Bảo
Muốn tu tại gia trước tiên ta phải quy y "Tam Bảo", và khi ta quy y Tam Bảo thì vấn đề lễ bái đối với ta rất quan trọng. điều thứ nhất trong hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ tát là: "Nhất giả lễ kính chư Phật".
Có một lần ở thành Vương xá, đức Thế Tôn thấy con gia chủ là Thi-Ca-la-việt (Thiện Sanh) sáng nào cũng hướng 6 phương để đảnh lễ trong lúc đầu tóc áo quần đang còn ướt sũng. đức Thế Tôn hỏi Thi-Ca-la-việt lễ lạy như thế để làm gì? Thì y thưa rằng lễ lạy như vậy là chỉ để làm theo lời cha dặn trước lúc lâm chung.
Chúng ta đôi khi cũng lễ lạy như vậy, lễ lạy theo thói quen khi bước chân vào chùa, lễ lạy khi nghe tiếng chuông, nhưng chúng ta cũng không ý thức lễ lạy để làm gì, và vì sao phải phải lễ lạy? Hoặc giả chúng ta lễ lạy để cầu xin mua may bán đắt, cầu xin cho con cái thi đậu, cầu xin sức khỏe khi có người thân lâm bệnh. Chúng ta thường chỉ biết lễ lạy với tâm nguyện cầu như thế. Chúng ta đã quên mục đích cao cả khi chúng ta đã "quy y Tam Bảo"là chúng ta phải học đạo của đức Phật, hành đạo như đức Phật, mục đích là xoay đời sống hung ác của ta thành đời sống từ bi, xoay xấu xa trở thành tốt đẹp. Chúng ta thường hay bạ đâu tính đó, ham kinh doanh, ham làm tiền, ham danh vọng, nên đời sống của chúng ta do đó không an lạc, chúng ta không được giải thoát. Khi một đệ tử đến cầu xin đức Phật giải thoát cho y khỏi bao đau khổ, phiền não, thì đức Phật hỏi y: Ai ràng buộc ngươi? Ai không cho ngươi được giải thoát?
Quy y Tam Bảo là nương theo Tam Bảo để làm như đức Phật, để tu như đức Phật cho đến khi được chánh đẳng chánh giác. Cho nên, khi chúng ta đã quy y Tam Bảo thì chúng ta không lạy gốc cây, không lạy bờ sông, không cúng ông Táo. Nếu chúng ta vẫn làm như vậy tức là chúng ta đã quên rằng chúng ta đã quy y Tam Bảo. Như vậy, chẳng khác nào anh làm ruộng gieo giống ngoài đồng rồi bỏ đó, không chăm sóc, không tưới bón, không vun quén, nếu chúng ta quy y Tam Bảo mà chúng ta không tu, không học đạo, không làm theo đạo Phật. Nếu chúng ta nhận định sai thì một ngày kia chúng ta phải thối tâm và sa đọa.
đức Phật dạy một bài học cho chúng ta là: của cải không đem lại chân hạnh phúc. đức Phật một hôm ngồi trên một đám cỏ ướt mà không lạnh, không thấy khổ, vì nguyên nhân gây khổ đức Phật đã dứt từ lâu, nên đức Phật vẫn an nhiên tự tại, đức Phật bảo rằng: nằm trong nệm ấm chăn êm mà lòng tham, sân, si không dứt, luôn luôn lo sợ mất của thì vẫn đau khổ như thường.
Chúng ta đôi khi quên mục đích quy y và lễ bái Tam Bảo của chúng ta, và nếu chúng ta chỉ lễ bái với mục đích thỏa mãn lòng ham muốn tầm thường bất chính, thì chúng ta không bao giờ đạt được mục đích cao cả kia. Ngày xưa có một anh thờ vị Thần Lã tổ và trú dạ lục thời anh ấy đều hương hoa lễ bái kính cẩn, chí thành. Ông Thần thấy anh kia tâm thành như vậy, rất cảm động, bèn hỏi anh ấy muốn cầu xin điều gì, thì y đáp là muốn xin Thần cho một chén vàng vì nhà y nghèo quá. ông Thần liền đưa ngón tay hóa phép và một chén vàng hiện ra cho y. Anh ta mừng quá! Vài hôm sau anh ta lại tiếp tục hương hoa lễ bái thành khẩn như trước. ông Thần lại hiện lên và lại hỏi anh ta muốn cầu điều gì? Anh ta liền thưa chén vàng nhỏ quá, không đủ để chi dùng, xin thần cho y một bình vàng. ông Thần lại đưa ngón tay ra chỉ và một bình vàng đầy ắp hiện ra. Anh ta mừng quýnh. Nhưng chẳng bao lâu anh ta nghĩ rằng mình muốn nhiều thứ hơn nữa, mà mỗi lần cầu xin thì chỉ được một thứ mất công lễ bái. Lần nầy anh ta sắm nhiều hương hoa, lễ bái nhiều hơn trước và thành khẩn hơn trước. ông Thần thắc mắc quá, chẳng biết anh ta còn muốn gì? ông hỏi, con còn muốn cầu xin điều gì nữa? Có phải con muốn đạo không? Hỏi năm ba lần anh ta mới thưa rằng "Chỉ muốn xin ngón tay làm phép của Thần thôi", ông Thần nổi giận đưa ngón tay chỉ một cái, tức thì nhà cửa, xe cộ, của cải gì của anh ta cũng sụp đổ tan tành. Thế mới hay nếu chúng ta lễ bái với mục đích cầu lợi lạc thì không bao giờ được thỏa nguyện, bởi lòng tham của chúng ta vô bờ.
Lễ bái đúng đắn
Nếu chúng ta không rõ ý nghĩa của lễ bái thì việc lễ bái trở thành vô ích. Vì sợ sệt mà lễ, vì lợi lộc mà lễ thì lễ Phật cũng như lễ gốc cây, bụi bờ không khác. đằng này chúng ta lễ Phật vì kính trọng đức hạnh cao cả, vì phục sát đất tâm lượng đại từ đại bi của đức Phật, trí huệ rộng lớn bao la của đức Phật. Chúng ta đã quy y theo Phật thì tâm lượng ta cũng phải rộng rãi bao la, chúng ta cũng phải có trí tuệ sáng suốt, như đức Phật, chúng ta cố gắng bỏ tánh tham lam bỏn xẻn nhỏ mọn hẹp hòi. Biết rằng đồng tiền không đem lại hạnh phúc tuyệt đối, nó là "một đầy tớ trung thành và đồng thời cũng là một người chủ khắc nghiệt"(ngạn ngữ Tây phương). Nếu chúng ta không để cho đồng tiền làm chủ thì đồng tiền mới đem lại hạnh phúc cho ta. (Xem câu chuyện anh chàng nghèo khổ nhưng đã phát tâm cúng dường tấm áo choàng duy nhất, rồi vừa la vừa chạy "được rồi, được rồi"; gặp lúc vua ngự ngang qua, cho đòi lại hỏi cớ sự. Sau khi biết chuyện, vua khen ngợi tấm lòng quảng đại của anh ấy và thưởng cho nhiều của cải).
Chúng ta lễ Phật là để cảm ân đức Phật đã giáo hóa chúng ta, đã bày chế ra bao nhiêu pháp môn phương tiện hầu dẫn dắt chúng ta đến Niết bàn, đến giải thoát. Phá trừ ngã chấp là giáo lý cao quý nhất mà đức Phật dạy cho chúng ta. Có người tu lâu năm, đạt được thần thông, bèn lên Thiên đường gõ cửa Thượng đế. Thượng đế hỏi "Ai đó?". Người kia đáp: "Tôi đây". Thượng đế hỏi: Tôi là ai? Người kia đáp: Tôi là tôi. Thượng đế bảo: Nếu tôi là tôi và ông là ông thì ở đây không có chỗ cho hai người cùng ở, hãy về đi. Người kia trở về tu nữa. Lần sau, khi gõ cửa Thiên đường và Thượng đế hỏi: Ai đó?- Tôi. Tôi là ai? thì người kia đáp: Tôi là Ngài. Thượng đế mới bảo: "hãy vào". Cho nên khi chúng ta không phân biệt tôi, anh, khi chúng ta không chấp cái "ta"thì bao nhiêu người cũng như một, đều sống chung với nhau, hòa thuận vui vẻ.
Ðứa bé mới ra đời chưa biết gì. đến một tuổi cha mẹ mới đặt cho một cái tên, có khi một cái tên rất xấu xa, và dần dần nó chấp chặc cái tên đó là mình, một khi có ai gọi cái tên ấy mà tán thán, khen ngợi thì nó lại thấy sung sướng, phấn khởi. Sau này khi lớn lên, khi nghe người khác xưng hô với mình thiếu lịch sự thì lại phiền muộn. Vì một cái tên bông lông, không đâu mà mình cứ đau khổ, sống chết luân hồi triền miên với nó? Nếu tin hiểu được lời Phật dạy: "Vạn pháp đều như hóa như huyễn"thì ta không bao giờ đau khổ nữa, không phiền muộn nữa. Cái danh xưng là giả tạm, cái thân là giả hợp, nếu chúng ta hiểu được như vậy, tất chúng ta an lạc, giải thoát (danh xưng như huyễn vô ngã).
Khi lễ Phật, chúng ta nguyện gì? Nguyện tiêu tam chướng, trừ phiền não, nguyện trí huệ viên mãn, nghiệp chướng tiêu trừ, nguyện thường hành Bồ tát đạo. đó là đem lại an lạc cho mình, cho nhân loại, cho chúng sanh. Cái an lạc này là an lạc từ trong tâm mà ra, từ trong lòng mình phát ra. đức Phật dạy chỉ cái an lạc phát ra từ trong lòng mình mới là cái an lạc chân thật, còn cái an lạc từ ngoài mà có thì cái an lạc ấy là giả tạo.
Ta lễ bái 10 phương để làm gì? và ta lễ ai? Tức là ta lễ tất cả biến pháp giới: Nhất nhất biến lễ sát trần Phật. Tức ta cầu tất cả các đức Phật hộ trì để ta: a) diệt trừ được bốn nghiệp phiền não (sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối), b) diệt trừ bốn lý do làm ác (tham lam, sân hận, ngã mạn, ngu si), c) trừ bỏ sáu nguyên nhân phung phí tài sản (cờ bạc, rượu chè, giao du đường phố phi thời, la cà đình đám hí viện, giao du ác hữu, quen thói lười biếng). Như vậy vấn đề lễ bái mới chính đáng.
Kinh đức Phật dạy cho người tại gia. Nếu ai học được đúng đắn sẽ trở thành người tốt nhất. Ngài dạy rằng người tu tại gia cần biết tích lũy tài sản như con ong, như đụn mối. Tiền của chia thành 4 phần: một để tiêu pha, hai phần làm vốn, một phần để dành khi gặp tai biến, khó khăn, làm việc từ thiện cúng dường. Chúng ta đã có nhiều công phu học Phật pháp nhưng ít khi nghe được một pháp vừa như ly sữa ngon ngọt cho trẻ thơ, như bữa ăn ngon cho người lớn, như bữa ăn bổ dưỡng cho người già cả. Ngài dạy dỗ chúng sinh không phân biệt, lời dạy chung, không bỏ ai, không chọn lựa ai; ai cố gắng nghe, thì hành trì được giải thoát trọn vẹn. Mọi căn cơ đều có pháp môn thích hợp.
Sáu nguyên nhân phung phí tài sản
Nhân một buổi sáng đức Phật đi khất thực, thấy chàng Thiện Sanh, con gia chủ, hướng sáu phương lễ bái, đức Phật liền dạy muốn cho việc lễ bái có ý nghĩa, trước tiên không làm 4 hạnh ác là tham, sân, si, mê; sau đó tránh xa 6 nguyên nhân phung phí tài sản mà ở đời ít ai tránh khỏi. đó là:
1. đam mê rượu: có sáu điều bất lợi là tài sản bị hao tổn, ưa đấu tranh, tật bệnh dễ xâm nhập, thương tổn danh dự, để lộ thân tàng, trí huệ thương tổn, tâm trí không bình tỉnh (Câu chuyện một vị ưu bà tắc vô tình uống lầm rượu mà phạm mọi giới: ăn cắp gà, sát sanh, tà dâm, nói dối);
2. du hành đường phố phi thời: không ai che chở cho mình, không ai hộ trì gia đình, tài sản không ai trông nom, bị tình nghi tác giả các ác sự, nạn nhân các tin đồn thất thiệt, tự rước vào thân nhiều khổ não;
3. la cà đình đám hí viện: tâm mơ tưởng vui chơi, bỏ bê vợ con,xao lãng công ăn việc làm, hao tổn tiền bạc;
4. đam mê cờ bạc: nếu thắng thì gây thù oán, nếu thua thì tâm sanh phiền muộn, tài sản bị hao thất, gây ra tranh chấp đánh lộn, tại hội trường lời nói không ai tin, bạn hữu khinh khi, vấn đề cưới gả không được tín nhiệm;
5. thân cận ác hữu: đó là những bạn cờ bạc, bạn loạn hành, người nghiện rượu, kẻ bạo động, người lừa gạt;
6. quen thói lười biếng: luôn luôn kiếm cớ để từ chối làm việc (quá nóng, quá lạnh, quá trễ, quá đói, quá no).
Chọn bạn lành mà chơi
Ðức Phật dạy phải chọn bạn như thế nào? Chọn thiện hữu tri thức mà giao du, nghĩa là người bạn lành. Có nhiều loại bạn: bạn rượu, bạn cờ bạc, bạn cơ hội, bạn mồm. Bạn giúp mình lúc hữu sự mới đúng là bạn tốt. Ác hữu là bạn cờ bạc đam mê héo mòn như trăng khuyết, nợ nần như chìm trong bồn nước. Làm bạn thế nào cho xứng đáng mới đúng là tự giác giác tha.
Có bốn hạng người không phải là bạn: đụng vật gì cũng lấy, chỉ biết nói giỏi, khéo nịnh hót, tiêu pha xa xỉ, sợ thế lực, cho ít xin nhiều. Bạn vì mưu lợi, tỏ lộ thân tình trong việc đã qua, hoặc việc chưa đến, mua chuộc cảm tình bằng sáo ngữ; khi có công việc tự tỏ bất lực; đồng ý các việc ác, không đồng ý các việc thiện; trước mặt thì tán thán, sau lưng lại chỉ trích. Tiêu pha xa xỉ, cờ bạc rượu chè, vui chơi bê tha, đình đám, du hành đường phố phi thời: người trí sẽ tránh.
Bạn nên có: người bạn giúp đỡ mình khi hữu sự, khuyên điều lợi ích, người bạn chung thủy, có lòng thương tưởng tới mình. Mình muốn làm bạn với ai mình cũng cần 4 điều tốt ấy: khuyên nhủ bạn khi bạn vô ý phóng dật, che chở cho bạn, làm chỗ nương tựa cho bạn khi bạn có điều sợ hãi, giúp thành hai lần khi bạn thiếu thốn (câu chuyện Lưu Bình Dương Lễ). Người bạn trong nạn khổ cũng như lúc vui, thổ lộ tâm tình, giữ gìn những điều bí mật của bạn hoặc tốt hoặc xấu, không bỏ ban khi bạn gặp khó khăn, dám hy sinh thân mạng vì bạn. Có câu"Bần cư náo thị vô nhân vấn, Phú tại thâm sơn hữu viễn thân": có nghĩa là khi nghèo nếu ở ngoài chợ cũng không ai hỏi, lúc giàu nếu có ở núi sâu cũng lắm kẻ tìm đến. đó cũng không phải là bạn.
Ðức Phật là người bạn không mời: Ngài không chấp chứa tiền của, Ngài đã diệt trừ lòng kiêu mạn, đi làm bạn với tất cả mọi người. Trong sự không nói, Ngài nói rất nhiều. Ngài đã diệt trừ lòng tham, chỉ ăn một bữa ngọ; khất thực buổi sáng (Ngài không khất thực buổi chiều), bình đẳng không lựa chọn. Có người chỉ trích Ngài chỉ đi khất thực, không làm lấy mà sống, Ngài đáp lại rằng Ngài cũng đang gieo trồng đây: Trong việc khất thực Ngài gieo hột giống từ bi; Ngài cũng cày bừa: cái cày là tinh tấn, cái bừa là nhẫn nhục, con trâu là thiền định; Ngài cho bạn nghe những điều chưa được nghe, chỉ cho bạn biết con đường lên cõi chư Thiên.
Bạn tốt là người không hoan hỉ khi bạn mình gặp nạn, hoan hỉ khi bạn mình gặp may mắn, cản ngăn khi nghe người khác nói xấu bạn mình. Bạn như hoa, bạn như cân: không phải là bạn. Bạn như hoa là bạn vì danh vọng, vì giàu có, vì lợi lộc. Bạn như cân là bạn luôn luôn đòi hỏi sự cân xứng cả hai bên, cân qua cân lại, giúp qua giúp lại, mới làm bạn. Bạn như đất, mới đúng là bạn tốt: tâm thành thiết tha, giúp cho bạn mình được lợi ích, không ganh tị, mà hoan hỉ (như đám đất). Ngược lại, khi bạn sa cơ, nghèo khổ, mình vẫn như như, không bỏ bạn, đó là bạn chắc thật. Không nên gần gũi những người mà mình không coi như bạn thiết, để khỏi bị dẫn dắt vào đường hư hỏng, biếng nhác. Mình làm bạn với ai cũng vậy, thiệt tâm giúp đỡ bạn. Khi bạn bị thất sủng, mình không bỏ. đó là bắt đầu cơ bản để đi đến việc lễ bái sáu phương có ý nghĩa như sau đây.
Sáu phương lễ bái
Ðó là: Phương Ðông chỉ cha mẹ, phương Nam chỉ sư trưởng, phương Tây chỉ vợ chồng, phương Trên chỉ tôn sư (Sa môn, Bà la môn), phương Bắc chỉ bạn bè và phương Dưới chỉ người giúp việc.
Chúng ta phải liên quan với sáu mặt mới sống được, sáu phương đó tương quan mật thiết với chúng ta. Nếu cắt đứt với sáu tương quan này thì chúng ta không thể sống được. Mình sống đây là sống tương quan với sáu hạng người, vậy ta cư xử thế nào cho đúng, theo lẽ phải, theo luật pháp?
1. Phương Ðông: Làm con phải phụng dưỡng cha mẹ, có bổn phận hầu hạ sớm tối, bảo vệ tài sản của cha mẹ, lo lễ tang khi cha mẹ qua đời. Cha mẹ nuôi con với tình thương, con cũng phải phụng dưỡng cha mẹ với tình thương, sớm tối viếng thăm, cung kính giữ gìn truyền thống gia đình. Ngược lại, cha mẹ cũng có 5 bổn phận đối với con cái: cưới vợ gả chồng, lo nghề nghiệp cho con, ngăn ngừa không cho con giao du với bạn xấu, con hư là cha mẹ có một phần trách nhiệm, trao của cải sự nghiệp cho con khi đúng thời. Lòng thương không sáng suốt làm cho con hư hỏng. Chọn nơi xứng đáng làm vợ làm chồng cho con. Ngày xưa các bậc cha mẹ chọn nơi môn đăng hộ đối, để lại lời than trách của các con, xui con vào đường tì thiếp. Không nên vì tham lam mà đưa đẩy con vào đường xấu xa. Ân và oán là do trong gia đình mà ra, khéo tu là hạnh phúc, không tu là dây oan. Như vậy là phương đông được che chở, không có chi sợ hãi.
2. Phương Nam: Ta phải phụng sự Sư trưởng như phụng sự cha mẹ "Tiên học lễ, hậu học văn", chào hỏi thăm viếng ân cần, hầu hạ Sư trưởng, hăng hái học tập. Ngược lại Sư trưởng có bổn phận huấn luyện đệ tử như mình đã được huấn luyện, thương đệ tử, khen đệ tử khi đệ tử học giỏi, đảm bảo nghề nghiệp cho đệ tử. Như vậy, phương Nam được che chở, không có chi sợ hãi.
3. Phương Tây: đối với vợ, người chồng phải kính trọng, không bất kính, thủy chung, giao quyền hành cho vợ, sắm đồ nữ trang cho vợ, khuyên răn giáo dục vợ khi vợ hổn hào, như chuyện sau đây: Có một chàng kia gặp chị vợ hỗn hào quá, luôn luôn chửi mắng chồng, nguyền rủa chồng khi có điều gì không vừa ý. Chàng ta mới đi mua về một cái hòm để trong nhà. Chị vợ hỏi: Mua hòm để làm gì? Chàng ta đáp là mua về để chôn anh khi anh chết, vì có thể anh chết thình lình chưa biết khi nào. Và mỗi lần chị vợ chửi rủa chồng thì anh đánh thình thịch trên quan tài và khóc rống lên: Chàng ơi, sao chàng chết đi, chàng nỡ bỏ thiếp bơ vơ một mình, không ai giúp đỡ, không ai trông nom, bảo vệ thiếp? Và chàng cứ khóc hoài thảm thiết cho đến khi chị vợ ngưng mắng mỏ, chàng mới thôi khóc. Và vài ba lần như vậy, chị vợ suy nghĩ lại, thấy mình hỗn hào với chồng thật là không nên, và từ đó, không bao giờ chị ta mắng mỏ chồng nữa. đó là một cách giáo dục vợ, đem lại kết quả tốt đẹp. NgườI vợ đối với chồng cũng phải làm hết bổn phận: khéo đón tiếp bà con chồng, trung thành với chồng, giữ gìn của cải, khéo léo làm mọi việc trong gia đình. Như vậy, phương Tây được an ổn, che chở, không chi sợ hãi.
4. Phương Bắc: Không lường gạt thì được bạn bè thương tưởng; che chở bạn, bảo vệ tài sản cho bạn, trở thành chỗ nương tựa cho bạn; không tránh xa khi bạn gặp khó khăn; kính trọng gia đình bạn. Như vậy, phương Bắc được che chở lẫn nhau, không ai sợ ai.
5. Phương Dưới: đối với người giúp việc, lo lắng ăn uống và tiền lương đầy đủ. Bắt làm việc nhiều mà trả lương ít coi như mắc nợ người ta vậy; điều trị người giúp việc khi có bệnh hoạn, ốm đau; có miếng ăn ngon chia xẻ cho người giúp việc; thỉnh thoảng cho nghỉ phép. Như thế người giúp việc sẽ trờ thành bạn với mình;nếu không đối xử đúng đắn, người giúp việc sẽ trở thành người thù đối với mình. Ngược lại, đối với chủ, người giúp việc phải thức khuya dậy sớm, thức trước khi chủ thức dậy và đi ngủ sau chủ, tự bằng lòng với các vật chủ cho, khéo đảm đang công việc, không phải làm cho lấy có; đem danh tiếng tốt về cho chủ. Như vậy, chủ xứng đáng mà tớ cũng xứng đáng, và phương Dưới được che chở, không có chi phải sợ hãi.
6. Phương Trên: đối với Sa môn, Bà la môn, chúng ta phải có lòng từ, hành động tốt về thân, khẩu và ý; mở rộng cửa để đón Sa môn và Bà la môn, cúng dường các vật dụng cần thiết. Sa môn và Bà la môn đối với chúng ta thì có lòng thương tưởng chúng ta, ngăn không cho làm điều ác, cảnh giác khuyên răn, khuyến khích làm điều thiện, làm cho thanh tịnh những điều đã nghe; thương xót chúng sanh với tâm từ bi; là thiện tri thức của chúng ta, dạy chúng ta những điều chưa nghe, chưa biết, làm cho rõ ràng để thực hiện cho được, đó là pháp thanh tịnh, làm cho chúng ta hoàn thành đạo Nhân thừa. Như vậy, phương Trên che chở, hai bên trở thành nơi nương tựa cho nhau, che chở cho nhau.
Trên đây là pháp Lễ bái đầy đủ sáu phương theo kinh Thiện Sanh và để kết luận, đức Phật nói bài kệ:
Cha mẹ là phương đông
Sư trưởng là phương Nam
Vợ chồng là phương Tây
Bạn bè là phương Bắc
Nô bộc là phương Dưới
Sa môn, Bà la môn
Có nghĩa là phương Trên
Cư sĩ và gia đình
đảnh lễ phương hướng ấy
Kẻ trí giữ giới luật
Từ tốn và biện tài
Khiêm nhường và nhu thuận
Nhờ vậy được danh xưng.
Dậy sớm không biếng nhác
Bất động giữa hiểm nguy
Người hiền không phạm giới
Nhờ vậy được danh xưng.
Nhiếp chúng tạo nên bạn
Từ ái tâm bao dung
Dẫn đạo khuyến hóa đạo
Nhờ vậy được danh xưng.
Bố thí và ái ngữ
Lợi hành bất cứ ai
Ðồng sự trong mọi việc
Theo trường hợp xử sự
Chính những nhiếp sự này
Khiến thế gian xây quanh
Như bánh xe quay lăn
Vòng theo trục xe chính Nhiếp
sự này vắng mặt
Không có mẹ hưởng thọ
Hay không cha hưởng thọ
Sự hiếu kính của con
Do vậy bậc có trí
Ðối với nhiếp pháp này
Như quan sát chấp trì
Nhờ vậy thành vĩ đại
Ðược tán thán danh xưng.
Tròn bổn phận đối với sáu phương hướng tức là lễ bái sáu phương, hợp với giáo lý đức Phật là từ tốn và biện tài.
Ðức tính từ tốn là không tranh thắng với ai, không vội vã. Biện tài là muốn lợi ích cho mình và cho người khác thì tìm lời nói năng khéo léo, dùng tài hùng biện để thuyết phục người, lời nói đủ ý nghĩa, trúng căn cơ để chuyển tâm người.
Căn bổn tâm chúng sinh là: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Mạn có bảy thứ:
1.Mạn: cứ đem tâm so sánh hơn thua trong ý nghĩ mình hơn người;
2. Ngã mạn: vì ỷ mình mà lấn lướt người;
3. Quá mạn: mình bằng người mà cho là hơn, người hơn mình mà cho là bằng;
4. Mạn quá mạn: người hơn mình nhiều, mà cho mình là hơn người;
5. Tăng thượng mạn: chưa chứng Thánh quả mà cho mình đã chứng;
6. Ty liệt mạn: mình thua người nhiều mà nói rằng thua ít;
7. Tà mạn: người tu về tà đạo được chút ít thần thông, hoặc hiểu biết đôi chút việc quá khứ vị lai, rồi khinh lướt người.
Do đó, muốn chuyển tâm phàm của chúng sanh thành Tâm thánh thì người ta phải tu học đức tính từ tốn và biện tài của đức Phật. Ta còn phải học tính "bất động trước hiểm nguy" của đức Phật nữa. Nếu ta phá được ngã chấp và ngã sở thì ta mới bất động trước hiểm nguy, và nếu còn chấp ngã và ngã sở thì cái khổ càng dày vì cứ sợ thiệt hại, mất mát. Vì sao nhà ta cháy ta đau đớn khổ sở, còn nhà người khác cháy ta vẫn an nhiên như không xãy ra việc gì?
Khi ta chấp một cái danh hư huyễn làm cái ta, thì ta cứ đau khổ liên miên khi cái danh xưng ấy bị gièm xiểm. Xưa có một vị Thiền sư đang tụng kinh thì có tên trộm lẻn vào gí dao vào lưng, hỏi: - Tiền để đâu? Thiền sư: đừng có lấy hết, hãy để lại một ít để đóng thuế. Tên trộm được tiền ra về. Thiền sư gọi giật lại, hỏi sao không cám ơn khi người ta cho mình tiền của? Tên trộm liền cảm ơn...Vài hôm sau tên trộm bị bắt giải lên huyện; ông Huyện cho mời Thiền sư đến và hỏi Thiền sư bị mất trộm bao nhiêu? Thiền sư bảo không bị mất trộm. ông Huyện bảo Thiền sư: Sao đã tu hành mà còn nói dối, vì tên trộm cung khai là đã lấy tiền của Thiền sư. Thiền sư đáp: Tên trộm đã được tôi cho tiền và y đã cảm ơn, chớ không lấy trộm... Do đó, tên trộm đã được tha về. Cho hay đối với của cải mà mình đã xả rồi thì mình không còn sợ hiểm nguy. Mình dùng cái ngã của mình để tu hành, nên gặp nguy hiểm mình không sợ; còn coi nặng cái ngã và ngã sở thì còn mang nhiều đau khổ. Việc này rất cao siêu và khó học tập, nhưng nếu ta cố gắng tinh tấn học tập thì thế nào cũng đạt được kết quả mong muốn.
Người giúp việc vấp té, lỡ tay làm bể bát cổ. Bà chủ hỏi: Con té có đau không? Như vậy là bà có đức độ bao dung, biết thương người mà không tiết của. Xưa có một vị Lang y giỏi nổi tiếng, có một người kia có mẹ già bệnh nặng, cứ chầu chực mấy ngày liền mà không rước được thầy lang. Y bèn quỳ giữa đường và đón xe thầy ngang qua. Thầy lang buộc lòng phải đến chữa bệnh cho mẹ y. Thầy cho hai thang thuốc và bảo y ngày hôm sau cho thầy biết kết quả. Hôm sau y đến thưa rằng mẹ y đã bớt bệnh nhiều, nhưng chắc chết. Thầy ngạc nhiên hỏi: Sao bớt bệnh mà lại chắc chết, thuốc thầy chưa bao giờ làm cho ai chết cả. Y thưa: Mẹ y không phải chết vì bệnh mà chết vì mất của, tiếc của. Nguyên mẹ y đã để dưới gối một lượng vàng, mà nay không còn nữa. Nếu tìm lượng vàng không ra thì mẹ y chắc chết. Thầy lang liền mở tủ, lấy một lượng vàng, bảo y cầm về đưa cho mẹ. Hôm sau mẹ y lành bệnh rũ chiếu giường, thì tìm thấy lượng vàng, biết mẹ con y đã nghi oan cho thầy lang, liền đem vàng đến trả và lạy tạ, xin sám hối tội lỗi. Như thế, thầy lang đã có đức đại lượng bao dung, chịu mang danh ăn cắp, chịu mất một lượng vàng, chỉ muốn cứu sống một mạng người. Cho nên muốn dẫn đạo, để khuyến hóa đạo, ta phải có lòng đại độ bao dung và muốn nhiếp phục chúng sanh quay về với Phật pháp, ta cần thực hành theo Tứ nhiếp pháp.
Tứ nhiếp pháp
Tứ nhiếp pháp là những gì? ấy là: bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự.
1. Bố thí nhiếp: Có ba cách bố thí: tài thí, pháp thí, vô úy thí.
a) Tài thí:có nội tài (bố thí chính ngay thân mạng mình- cho máu để tiếp người bệnh nhân) và ngoại tài (cho tiền bạc của cải). Tài thí có nhiều cách: định kỳ thí, cấp thời bố thí (một miếng khi đói bằng một gói khi no), hợp lực bố thí (kêu gọi hợp lực cùng nhau làm, vì một mình không đủ phương tiện), kính cẩn bố thí (kính cẩn đối với người mình bố thí).
Bố thí thì cần xét đến: tâm bố thí, của đem bố thí và người mình bố thí. Tâm phải là tâm thanh tịnh nghĩa là trong sạch, không phải cầu danh, hoan hỉ khi đang bố thí và mừng rỡ sau khi bố thí. Của bố thí phải là của thanh tịnh, nếu là của không trong sạch (ví dụ của ăn cướp) thì không phước đức. Xứng cảnh trí tức là người mình nên bố thí, cúng dường giống như ba thứ ruộng phước: kinh điền (người đáng tôn trọng), ân điền (người có ân với mình như cha mẹ, sư trưởng) và bi điền (người đáng thương xót).
Khó có người giàu có như ông Cấp cô độc đem vàng trải ở Kỳ viên, nhưng người nghèo cũng có thể bố thí được. Như anh kia thấy người ta cúng dường trai tăng, anh chỉ kiếm ra được một ít đậu, bèn đứng vào một xó. Lúc người ta đang tác bạch, thì thấy đậu trãi đầy bàn ăn, mọi người đang tìm hiểu, thì đức Phật trông thấy y đang đứng trong góc phòng, đức Phật gọi anh ta là "đại thí chủ". Mọi người liền mời y ra cùng dự chung. Anh ta chỉ bố thí với tâm thành khẩn, không kể mình thấp kém.
Có chị ở giúp việc cho người ta, rất muốn cúng dường đức Phật. Chị nghèo quá, chỉ kiếm được một miếng bột, bèn gói trong lá, đem nướng đi, và ước ao cúng dường đức Phật, chỉ sợ đức Phật không nhận. Không ngờ đức Phật nhận và bóc bánh ra, ăn liền trước mặt chị. Chị ta sung sướng hết sức.
b) Pháp thí: Trong khi tài thí giúp đỡ sắc thân thì pháp thí có công năng giúp đỡ cho pháp thân, huệ mạng. Nếu không có pháp nuôi dưỡng thì pháp thân heo mòn, trái lại thì pháp thân tăng trưởng. Việc pháp thí rất khó vì nếu ta không biết pháp, không học pháp thì lấy đâu để pháp thí? Cho nên đức Phật thường bảo đệ tử đem giáo lý của đức Phật phổ biến cùng khắp.
đối với người đau khổ về tinh thần thì cần pháp thí. Có một chị đi lấy chồng, lâu lắm mới có một đứa con. Khi con mới lên ba thì chồng qua đời, và sau đó ít lâu, đứa con bỗng chốc bị trúng gió, chết mất. Chị ta đau đớn vô cùng và không tin là con mình đã chết. Chị bồng con đi xin thuốc chữa. Với tâm sầu khổ, chị đến gặp đức Phật và xin đức Phật cứu sống con chị. đức Phật bảo chị đi xin hột cải tại nhà nào chưa có người thân chết đem về để đức Phật cứu cho. Chị đến từng nhà xin hột cải, nhưng khi chị hỏi trong nhà đã có ai chết chưa, thì người nào cũng đáp là nhà đã có người chết. Và cuối cùng chị đến một nhà vừa có con nhỏ chết. Chị ta liền giác ngộ, bèn đem con về chôn cất. Hôm sau chị đến bạch Phật rằng việc Ngài dạy con đã làm xong, và xin đức Phật chứng minh cho.
Như vậy Ngài đã dạy pháp để chị ta tự tu, tự chứng; nếu lúc bấy giờ giảng lý thì không hợp, trong lúc chị ta đang đau khổ. Trong khi đi xin hột cải thì chị ta đã trực tiếp chứng được lý vô thường của vạn vật. Chúng ta học đạo là để chất chứa Phật pháp ngõ hầu khi gặp lại tai biến mà tiêu dùng, như chất chứa tiền của vậy.
c) Vô úy thí: Là đem cái không sợ ra thí cho chúng sanh. Ta không giết hại vật thì vật gần mình không sợ hãi, ta không trộm cắp thì người khác không sợ mình lấy cắp của người. Vả lại còn biết hy sinh giúp người cứu vật trong lúc hoạn nạn tai biến.
2. Ái ngữ nhiếp: Tùy theo căn tánh chúng sanh mà khôn khéo nói năng, an ủi khuyên lơn nhân thế khiến cho họ sanh lòng thân mến, rồi từ đó họ mới theo ta mà học đạo; lời nói khéo léo, ôn tồn, nhẹ nhàng đem lại an lạc cho tâm ta và mọi người.
Có anh kia đi cày, ngủ trưa, quên cột trâu. Một con hổ từ trên xuống núi đi xuống. Trâu đến đánh thức chủ dậy để báo động. Mất ngủ, anh kia bèn đánh đuổi trâu. Trâu kia sợ hổ ăn thịt chủ, bèn chồm lên mình chủ để đỡ cho chủ. Anh đi cày giận quá, cho là trâu trở chứng, liền bỏ buổi cày, dẫn trâu về. Dọc đường gặp đức Phật, trâu khóc. đức Phật vỗ về trâu, lấy lời dịu ngọt dỗ dành khiến trâu hết đau khổ và làm cho anh cày giác ngộ. ái ngữ, trong ái ngữ nhiếp không phải là lấy lời dịu ngọt để nịnh hót cốt làm lợi cho mình. ái ngữ ở đây cốt lợi cho người khác.
3. Lợi hành nhiếp: Làm những việc có lợi cho người khác. Bất cứ việc nhỏ hay lớn, nếu biết làm thì mới có giá trị lớn. Kinh Lăng nghiêm có đoạn kể Ngài Trì địa Bồ tát chuyên đi sửa đường, sửa cầu, gánh đồ giùm cho mọi người. Có một vị hòa thượng kể câu chuyện đã có lần cùng với quý thầy đi ngang qua một cánh đồng. Nắng gắt và khác nước, mọi người dừng lại nghỉ chân ăn uống. Nhân ăn xoài, quý thầy ương những hột xoài tại chỗ. Mấy năm sau có việc, hòa thượng cùng quý thầy lại đi qua chỗ cũ, thấy mấy cây xoài đã bắt đầu có quả ăn. đó cũng là một việc lợi hành mà ít ai để ý làm.
4. Ðồng sự nhiếp: Cùng làm một việc với người khác. Tùy theo mỗi người làm một việc nhưng cùng nhắm một mục đích (ví dụ: xây dựng gia đình, cùng nhau đẩy một chiếc xe lên dốc, nếu không cùng đẩy là không cùng sự). Có đồng sự thì nói gì người ta cũng nghe mình.
Có bốn sự nhiếp này thì thế giới hòa bình, gia đình an lạc. Bốn sự nhiếp này vắng mặt thì con cái không hiếu kính cha mẹ, anh em không sống hòa hiệp với nhau. Làm được bốn nhiếp sự này thì được danh xưng, mọi người tán thán./.